Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản (サッカー日本代表 (Soccer Nhật Bản Đại Biểu), Sakkā Nippon Daihyō?) là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Nhật Bản tại các giải đấu khu vực, châu lục và thế giới. Đội được quản lý bởi Hiệp hội bóng đá Nhật Bản (JFA).
TỪ VỰNG LIÊN QUAN ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG TRÊN SÂN BÓNG
Bạn có đang quan tâm đến các khóa học online tại Riki? Bấm ngay vào ảnh dưới để xem chi tiết về ưu đãi đặc biệt cho các khóa học tại trung tâm nhé
Hệ thống các giải đấu bóng đá Nhật Bản được tổ chức theo hình dạng kim tự tháp tương tự như hệ thống giải đấu bóng đá ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Các giải đấu được ràng buộc bởi các nguyên tắc lên hạng và xuống hạng; Tuy nhiên, có những tiêu chí khắt khe về việc lên hạng từ JFL lên J3, yêu cầu một câu lạc bộ được hỗ trợ bởi chính các thị trấn bao gồm cả chính quyền địa phương, cộng đồng người hâm mộ và các nhà tài trợ của công ty chứ không phải là của một công ty mẹ hay một tập đoàn.
Ba hạng đấu cao nhất của bóng đá Nhật Bản được quản lý và điều hành bởi J. League, bao gồm J1 League, J2 League, và J3 League. Tất cả các câu lạc bộ tại J. League đều là các câu lạc bộ chuyên nghiệp.
Hạng đấu thứ tư, Japan Football League (JFL) là một giải đấu bán chuyên bao gồm các câu lạc bộ nghiệp dư, chuyên nghiệp và các câu lạc bộ doanh nghiệp đến từ khắp Nhật Bản.
Ở hạng năm và sáu, 9 giải bóng đá vùng được điều hành bởi 9 liên đoàn bóng đá khu vực khác nhau.
Đối với dưới hạng bảy các giải tỉnh được tổ chức bởi 46 liên đoàn bóng đá tỉnh.
Hokkaido (8 câu lạc bộ) Tohoku Hạng 1 (10 câu lạc bộ) | Tohoku Hạng 2 Bắc(10 câu lạc bộ) | Tohoku Hạng 2 Nam(10 câu lạc bộ) Kanto Hạng 1 (10 câu lạc bộ) | Kanto Hạng 2 (10 câu lạc bộ) Tokai Hạng 1 (8 câu lạc bộ) | Tokai Hạng 2 (8 câu lạc bộ) Hokushin'etsu Hạng 1 (8 câu lạc bộ) | Hokushin'etsu Hạng 2 (8 câu lạc bộ) Kansai Hạng 1 (8 câu lạc bộ) | Kansai Hạng 2 (8 câu lạc bộ) Chugoku (10 câu lạc bộ) Shikoku (8 câu lạc bộ) Kyushu (10 câu lạc bộ)
Sapporo Block | Dōhoku (Bắc) Block | Dōtō (Đông) Block | Dōō (Trung) Block | Dōnan (Nam) Block Aomori | Iwate | Miyagi | Akita | Yamagata | Fukushima Ibaraki | Tochigi | Gunma | Saitama | Chiba | Tokyo | Kanagawa Gifu | Shizuoka | Aichi | Mie Niigata | Toyama | Ishikawa | Fukui | Yamanashi | Nagano Shiga | Kyoto | Osaka | Hyogo | Nara | Wakayama Tottori | Shimane | Okayama | Hiroshima | Yamaguchi Tokushima | Kagawa | Ehime | Kochi Fukuoka | Saga | Nagasaki | Kumamoto | Ōita | Miyazaki | Kagoshima | Okinawa
J. League quản lý hai giải đấu cao nhất của bóng đá Nhật Bản với 40 câu lạc bộ, đều là chuyên nghiệp và được chia làm hai hạng đấu, J. League Hạng 1 (J1) and J. League Hạng 2 (J2). Mười tám(18) câu lạc bộ tại giải đấu cao nhất và giành quyền tham dự giải đấu châu Á, AFC Champions League. Hạng 2 hiện có 22 câu lạc bộ, sau khi có 2 câu lạc bộ mới lên hạng năm 2012.
Tất cả các câu lạc bộ tại J. League giành quyền vào thẳng Cúp Hoàng đế và không phải thi đáu vòng 1, những câu lạc bộ tại Hạng 1 cũng giành quyền thi đấu tại J. League Cup. Trong quá khứ, những câu lạc bộ Hạng 1 bắt đầu từ vòng 4 còn các câu lạc bộ Hạng 2 bắt đầu từ vòng 3. Hiện tại, tất cả đều bắt đầu từ vòng 2 do sự mở rộng của Hạng 2, điều này khiến các câu lạc bộ chuyên nghiệp có thể bị loại bởi các đội khu vực từ sớm.
Quy định lên J2 sẽ tương đối giống với Japan Football League những mùa gần đây: để lên hạng, câu lạc bộ phải đáp ứng tiêu chuẩn của J2 và đứng trong 2 vị trí đầu. Đội U-22 J-League [a] sẽ không được lên hạng bất chấp kết quả chung cuộc. Đội vô địch sẽ lên hạng trực tiếp, thay cho đội ở vị trí thứ 22 J2; đội á quân sẽ đá trận playoff với đội xếp thứ 21 J2. Nếu một trong 2 đội không đủ quyền thăng hạng, trận playoff và/hoặc suất xuống hạng sẽ không diễn ra tùy thuộc vào vị trí của câu lạc bộ giành quyền lên hạng.[2]
Japan Football League (JFL) là hạng đấu thứ tư của bóng đá Nhật Bản, được xem là hạng đấu nghiệp dư cao nhất. Trước 2010, JFL được điều hành bởi Liên đoàn bóng đá Nhật Bản (JFA); từ 2010, JFL tách khỏi LDBĐ Nhật Bản và có cơ quan tổ chức riêng, bao gồm phần lớn là các câu lạc bộ nghiệp dư và đội bóng doanh nghiệp, một vài câu lạc bộ chuyên nghiệp (thành viên liên kết J. League) cũng tồn tại. Do sự hiện diện của các câu lạc bộ chuyên nghiệp, giải đấu có tình trạng bán chuyên nghiệp.
Các câu lạc bộ ở hạng này và thấp hơn tham dự Cúp Hoàng đé một cách gián tiệp; phần lớn các đội phải tham dự thông qua các giải tỉnh; câu lạc bộ JFL đứng đầu nửa đầu mùa giải mới được quyền tham dự trực tiếp. Tuy nhiên nếu họ vô địch giải tỉnh thì đội á quân tỉnh đó sẽ được thay thế
Ngày nay Nhật Bản được chia thành 9 vùng khác nhau. Từ Bắc tới Nam là Hokkaido, Touhoku, Kantou, Tokai, Hokushin-etsu (Hokuriku+Shin-etsu), Kansai, Shikoku, Chugoku, và Kyushu. Mỗi khu vực sẽ có giải đấu riêng và sẽ có 9 giải đấu song song được tổ chức bởi các liên đoàn khu vực. Hokkaido, Chugoku, Shikoku, và Kyushu chỉ có một hạng đấu, các nơi khác có hai hạng. Touhoku Hạng 2 được chia thành Hạng 2 miền Bắc và Hạng 2 miền Nam. Do sự khác biệt trong cấu trúc, mỗi khu vực có quy định về việc lên xuống hạng riêng
Bên cạnh Cúp Hoàng đế, những câu lạc bộ còn tham dự Giải vô địch bóng đá toàn Nhật Bản (Shakaijin Cup), vòng loại thông qua các cúp tỉnh. Một số khu vực có giải League Cup riêng (Kanto, Kansai).
Ở 9 khu vực, có 47 tỉnh. Hokkaido được coi là một tỉnh, nên các giải ở Hokkaido không chia theo tỉnh mà chia thành 5 blocks (Bắc, Trung, Đông, Sapporo, và Nam); còn lại 46 tỉnh có các giải của tỉnh đó. Phần lớn đều có nhiều hạng đấu.
Bóng đá cấp câu lạc bộ Nhật Bản